Cô thường kể cho
anh nghe chuyện về quê ngoại, nơi có những đồi hoa sim tím ràm rạp dưới những
ngọn gió hoang dã của núi rừng. Nơi cô được sinh ra trong vạt áo chàm của mẹ,
lớn lên dưới tấm mền đụp của bà. Nơi cô đã từng được nuôi bằng những đọt măng
rừng, những củ khoai củ sắn, những con don con dím và bằng cả những giọt nước
mát ngọt ngào của dòng suối Mường Sa ngày đêm tuôn chảy giữa bản Mường Bông với
những câu chuyện đẹp như huyền thoại. Bà ngoại kể rằng bản Mường Bông ngày xưa
nằm trong thung lũng đầy hoa ban trắng cách đây chín cánh rừng. Mùa xuân đến
hao ban nở rộ chảy bồng bềnh từ trên đỉnh chín ngọn núi xuống như một biển mây
trắng bao phủ. Trong lòng ngọn núi trước bản tuôn chảy một dòng suối nước nóng
quanh năm nghi ngút mờ sương. Dòng suối tiên đó tự bao đời đã mang lại sức sống
kỳ diệu cho bản Mường Bông. Con gái bản tắm nước suối lớn lên da đẹp nõn nường
như hoa ban, tóc mềm như mây, môi thắm như quả mâm xôi, mắt long lanh như sao
sa trên đỉnh núi. Con trai bản tắm nước suối tuy khóe mạnh, sức lực dẻo dai săn
chắc nhưng càng lớn lên càng xấu xí như
con thú trên rừng. Vì sự éo le đó từ xa xưa tổ tiên Mường Bông đã truyền lại
lời nguyền: “Nếu người con gái Mường Bông nào chê trai bản đi lấy chồng nơi
khác thì khi bước qua chín ngọn núi của đất Mường sẽ bị hóa thành đá”. Lời
nguyền đó có sức mạnh thiêng liêng nên bao đời nay chưa có một người con gái
bản nào dám vượt qua những đỉnh núi cao chất ngất kia, cả đời chỉ tù túng quẩn
quanh với rẫy ngô, nương sắn của bản làng.
Có một người con
gái bản tên là Nường Mây, Nường Mây có sắc đẹp kỳ lạ, đẹp bằng tất cả vẻ đẹp
của gái bản cộng lại. Tiếng hát của Nường Mây trong veo, ngọt ngào như nước
suối Mường Sa. Nường Mây biết hát sử thi Đẻ đất đẻ nước của người Mường, hát về
bản Mường Bông có hoa ban trắng, có nước suối tiên.. Tiếng hát của Nường Mây
mênh mang bay qua chín ngọn núi theo những ngọn gió hoang dã về xuôi. Một ngày
kia có một chàng trai trẻ lên bản muốn đưa nước suối về chữa bệnh cho người
dưới xuôi và mang chữ viết, sách báo lên cho dân bản. Người Mường Bông chưa bao
giờ nhìn thấy một người trai đẹp đẽ tuấn tú đến thế. Chàng trai có đôi mắt sáng
như sao sa với cái nhìn cương nghị. Ngoài việc dạy chữ cho dân bản chàng còn
dạy dùng nước suối để con trai không bị xấu, con gái mái tóc thêm dày, thêm
đẹp. Sau một thời gian chàng trai và cô gái quấn quit nhau như dây rừng trên
núi. Họ thề rằng: Xin cha Giàng mẹ Đất, xin núi rừng sông suối chứng giám cho
tình yêu son sắt của chúng con. Nếu không được sống bên nhau chúng con xin chết
để giữ trọn tình yêu.
Rồi một ngày kia
trời bỗng đổ mưa nguồn chớp bể, nước suối Mường Sa cuồn cuộn chảy. Chàng trai
vội tạm biệt người yêu, tạm biệt bản Mường và không quên hẹn ngày trở lại. Sáu
tuần trăng đi qua là sáu tuần Nường Mây sống trong nhớ mong hy vọng, lặng lẽ ôm
giọt máu của chàng đang lớn dần trong bụng. Ngày ngày Nường Mây gửi tiếng hát
ngọt ngào theo gió về xuôi. Tiếng hát nói với người yêu những lời mong mỏi đợi
chờ tha thiết, nhưng chàng trai vẫn như
cánh chim trời biền biệt. Rồi một hôm thấy không thể ngồi chờ được nữa nàng tìm
đến nhà già làng quỳ lạy và kể rõ sự tình xin ra đi tìm người yêu. Già làng
nói; “Nường Mây ơi sao con lại dại dột như con chim không biết hướng, con thú
chẳng nhớ lối về. Con có biết lời nguyền từ bao đời chưa một ai dám bước qua
nên con chẳng bao giờ bước qua được ngọn núi thứ chín đâu. Chỉ khi nào cả bản
rời xuống chân núi thì lời nguyền mới được giải. Ta thương con nhưng chỉ có thể
khuyên con nên ở lại bản làng sinh con và nuôi cho nó khôn lớn. Dân bản và núi
rừng sẽ nuôi nấng che chở cho mẹ con con. Con đừng có dại dột như con nai con
hoẵng non mà đi tìm con người bội bạc đó, lời nguyền sẽ ứng ngay thôi ”. Nhưng
không thể kìm được nỗi lòng sâu nặng yêu thương Nường Mây một mực xin già làng
giúp cho nàng được đi tìm người yêu. Biết không ngăn cản được người con gái
trong trắng và dại dột đó già làng cho Nường Mây con ngựa to khỏe nhất đàn để
nàng ra đi.
Nường Mây ngày
đêm vượt suối băng rừng với bụng mang dạ chửa mặc đói khát hành hạ, mặc gai cào
đá toạc, mưa chan nắng đổ. Sau ba mùa trăng mờ tỏ nàng đã đặt chân lên ngọn núi
cuối cùng, lúc đó trời cũng vừa hoàng hôn. Khi mặt trời bắt đầu xuống núi cũng
là lúc Nường Mây trở dạ. Sau những cơn đau xé lòng là tiếng khóc oa oa chào đời
của đứa con thân yêu. Như được tiếp thêm sức mạnh nàng bật dậy đỡ lấy con mình.
Nường Mây cởi tấm áo rách quấn cho con và đứng lên nhìn về phía trước.
Nường Mây sững sờ trước một không gian
mênh mông trước mặt. Dưới chân nàng là trùng trùng sóng lúa và biển khơi trải
xa tít tắp đến vô cùng vô tận. Nàng chợt nhận ra là già làng đã nói đúng, nàng
không bao giờ tìm được người yêu trong cõi xa xanh phẳng lặng vô biên kia. Một
nỗi đau đớn trào dâng, đôi chân Nường Mây cứng dần lại, nàng bắt đầu hóa đá.
Nường Mây khóc nức nở khi nhận thấy lời nguyền xưa ứng nghiệm, đứa trẻ trong
tay nàng cũng dần tắc nghẹn tiếng hờn, nước mắt nàng tuôn chảy trong ánh hoàng
hôn đỏ chói. Bầu trời chợt sáng bừng lên, ánh cầu vồng bảy sắc hiện lên trên
đỉnh núi thứ chín. Nửa thân hình Nường Mây đỏ rực như khoác chiếc áo choàng lửa.
Do vậy cho đến tận bây giờ mỗi khi hoàng hôn buông xuống một nửa thân hình
người thiếu phụ bồng con lại đỏ rực một màu. Người ta bảo đó là màu của nhớ
thương mong đợi, có người bảo đó là sự hối hận của đất trời đã gây oan nghiệt
đối với nàng. Còn dân bản Mường Bông lại nói đó là sự tức giận của tổ tiên đối
với người dám bước qua lời nguyền. Cảm động trước nỗi đau khổ thấu tận trời
xanh của Nường Mây, dân bản đã rời thung lũng Hoa ban xuống lập bản mới dưới
chân núi thứ chín để giải lời nguyền xưa. Từ đó tới nay trai gái bản Mường được
tự do đi xa về gần và được yêu thương cả những người cách ba sông bảy núi.
* *
*
Trong một đợt
anh đi thực tế sáng tác tìm cảm hứng mới cho tranh nghệ thuật cô đã đưa anh từ thành
phố lên ngọn núi Nường Mây, thăm bản nhỏ yêu dấu mà tuổi thơ cô đã từng gắn bó.
Nhưng đâu còn rừng núi xanh rì và dòng suối thơ mộng. Con suối Mường sa đã bị
chặn ở đầu nguồn, đất bản Mường Bông chỉ còn trơ cằn sỏi đá, cây cối khẳng khiu
thưa thớt chĩa cành lên trời. Đàn ông trong bản đi làm ăn xa hết chỉ còn lại
trẻ con người già và những phụ nữ ốm yếu. Người bản Mường Bông lầm lũi cặm cụi
trên những đồi hoang tạp kiếm củi. Những người đàn bà mặc váy đen, đội khăn
chàm chân đất, ngón chân tòe ra như chân chim bám vào vách đá, suốt ngày họ đào
bới tìm sự sống giữa đất cằn. Lũ trẻ con nhem nhuốc lốc nhốc cả ngày lê la đất
cát không được tới trường. Đâu đó thỉnh thoảng tiếng mõ trâu lốc cốc vọng về
gợi lại niềm khắc khoải năm tháng xa xưa bản Mường Bông đẹp như miền cổ tích.
Anh ngỡ ngàng: “Những điều em kể đâu cả rồi?”. Cô xót xa: “Những trận mưa rừng,
lũ quét và chủ yếu là sự tàn phá của con người đã biến bản Mường thành xơ xác
nghèo đói. Nhưng anh hãy nhìn kìa…” Cô chỉ lên ngọn núi: “Nường mây vẫn còn đó.
Tình bản Mường luôn gần gũi gắn bó với em!”
Anh lặng đi
trước bức tượng đỏ rực trong hoàng hôn rồi cây cọ trong tay anh đưa lia lịa.
Trong một thoáng tấm toan trắng đã hiện hình người thiếu phị bằng đá đứng ôm
con trong nắng chiều tím lịm, đôi mắt mênh mông dõi về xa. Chiếc áo choàng qua
vai thiếu phụ phủ xuống đứa bé hắt lên màu đỏ rực. Anh đặt tên cho bức tranh là
VẠT ÁO CHIỀU. Cô ngỡ ngàng, anh mỉm
cười: “Em có biết tại sao anh lại đề tựa cho bức tranh là Vạt áo chiều không?
Khi người đàn ông và người đàn bà sống với nhau chẳng khác gì như hai vạt áo
phấp phới. Những đứa con là những chiếc khuy áo cài hai vạt áo lại với nhau
thành một gia đình đầy đủ. Người đàn bà hóa đá này là một vạt áo lẻ loi giữa
chiều tà vì mẹ con nàng không có người đàn ông nương tựa. Màu áo của nàng đỏ
rực là màu của khát khao và hờn oán ”. Cô rùng mình khi nghe những điều anh
nói, chẳng cần nhìn sâu vào đôi mắt anh như mọi khi cô vẫn hiểu nỗi niềm của
anh. “Anh ơi rồi đây em sẽ tặng cho anh những chiếc khuy áo xinh xắn để chúng
cài anh lại với em”.
Anh đã lập gia
đình gần chục năm mà chưa được làm bố. Sự hiếm muộn khiến cho cuộc sống chung
giữa hai vợ chồng rệu rã gượng gạo. Anh buồn phiền gắng gượng, chị quắt queo
héo mòn. Trong một lần đi thực tế anh đã gặp và yêu say đắm vẻ đẹp đằm thắm dịu
dàng thôn nữ của cô. Còn cô cũng yêu anh bằng tất cả cuộc đời mình, yêu sự gian
truân phong trần, yêu lòng nhân hậu và cả những điều phiền muộn nơi anh. Sau
lần đưa anh về bản Mường hai tháng cách xa làm cô nhớ anh đến quay quắt. Khi
phát hiện ra mầm sống đang từ từ lớn lên trong lòng cũng là lúc cô nghe tin vợ
anh đã xin một đứa con nuôi. Vừa bàng hoàng xót xa, vừa nhớ thương hy vọng cô
tìm về thành phố âm thầm đến đứng dưới gốc cây trước cửa nhà anh trong một buổi
tối mùa hè. Trong nhà điện sáng trưng soi rõ những giò phong lan tươi tắn đung
đưa trong gió. Đó là những giò phong lan anh và cô tìm được ở bản Mường Bông.
Phòng khách mở rộng, người giúp việc đang cặm cụi lau chùi dưới bức tranh Vạt
áo chiều lồ lộ rực rỡ. Vạt áo chiều của anh đã đạt giải A trong cuộc triển lãm
tranh nghệ thuật khu vực vừa qua. Nhiều người, nhiều tổ chức đã đòi mua với giá
cao nhưng anh không bán. Có tiếng trẻ con cười vọng từ trên phòng xuống, tiếng
anh vui đùa nựng nịu con, tiếng vợ anh nhờ chồng pha sữa, tất cả vui vẻ rộn rã
như một bản hòa tấu hạnh phúc gia đình. Cô chợt hiểu nỗi bẽ bàng của thân phận
mình khi chợt hiểu ra rằng đứa trẻ kia chính là chiếc khuy áo cài chặt anh và
chị lại. Nó là sự kết nối hạnh phúc, là sự tái sinh tình yêu cuộc sống của vợ
chồng anh. Cô không thể khóc, chỉ biết cắn chặt môi ngẩng đầu nhìn lên vầng
trăng đang khuyết.
Bẩy năm sau.
Có một người họa
sĩ tóc tiêu đeo giá vẽ lặn lội tìm về bản Mường Bông. Không còn cảnh hoang tàn
xưa cũ, người khách ngỡ ngàng trước bạt ngàn màu xanh của những đồi cây ăn quả,
những rừng hòe, rừng cây lấy gỗ nối nhau liên tiếp. Những giống cây ăn quả của
đồng bằng châu thổ sông Hồng như đu đủ, khế, na, táo, ổi…chen chúc nhau xum xuê
trĩu trái. Con trai, con gái bản Mường khỏe mạnh gọn gàng trong những bộ quần
áo lao động. Hết ngày làm việc họ lại tụ tập hò hát vui vẻ. Dân bản lấp lánh
những ánh mắt vui sướng khi kể cho anh nghe chuyện thay đổi của bản. Cách đây
bảy mùa nương rẫy có người con gái ngày xưa được sinh ra và lớn lên tại nơi đây
đã bụng mang dạ chửa ngược gió trở lại với bản mường. Người con gái ấy đã mang
mầm cây, hạt giống từ quê nội lên ươm trồng, dạy cho dân bản làm vườn, thu nhập
từ cây quả. Cô còn khuyên nhủ mọi người cho trẻ con đến trường, đàn bà trong
bản gọi chồng về chăm sóc cuộc sống gia đình. Cô gái đó đã ngoài ba mươi tuổi
và hiện đang làm chủ tịch xã Mường Bông. Dân làng còn nói: “Anh chưa thể gặp
chị ấy được vì chị đang cùng đám trai làng ngược qua chín ngọn núi vào thung
lũng Hoa Ban tìm cách đưa dòng suối Mường Sa về với bản. Dân bản Mường Bông ta
ai cũng quý và thương chị ấy. Lên với bản đã bảy mùa rẫy. làm nhiều việc tốt
cho dân bản rồi mà chị ấy vãn chưa hết nhớ về xuôi. Những lúc rối chiều chiều
chị lại dắt con ra đầu bản nhìn hoàng hôn đỏ thắm buông xuống ngọn núi Nường
Mây như nhớ về một chốn xa”.
Hòa Bình – Hà Nội hè 2006
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét