XUÂN
TÙNG
Danh từ Bách Thuận có phần lạ lẫm đối
với một số người đã từng quen thuộc vùng đất này. Bách Thuận chính là Thuận Vi
trước đây đã nổi tiếng một thời về những vườn cây ăn quả và nuôi tằm ươm tơ với
hợp tác xã Trung Hoà, năm1964 được nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động và
là lá cờ đầu trồng dâu nuôi tằm toàn miền Bắc. Thuận Vi giờ sáp nhập với Bách
Tỉnh, Thuận Nghiệp tạo ra thế chân kiềng một Bách Thuận đẹp giàu với nền kinh
tế vườn và "nông tang vi bản", năm 1976 xã Bách Thuận lại được tặng
thưởng Huân chương Lao động lại là lá cờ đầu phong trào trồng dâu nuôi tằm
trong toàn quốc.
Xã Bách Thuận được hình thành cách đây
hai trăm năm: Làng hình thành từ lớp lớp
bùn nâu/ Cho cây táo mời chim về hót trái/ Cho tiếng hát óng vàng tơ lụa/ Cho
dọc ngang đường lớn đón xe về.
Cũng như nhiều vùng quê khác, Bách
Thuận trước đây trồng dâu nuôi tằm nhằm tự cung tự cấp cái ăn, cái mặc trong
địa phương. Dưới chế độ của ta, mọi người cũng đã thấy tầm quan trọng của cây dâu
và con tằm trong nền kinh tế quốc dân. Nhưng thực tế cũng chưa được các cấp
lãnh đạo quan tâm đúng mức. Gần đây do nhiều yếu tó chủ quan và khách quan, nhà
nước mới có chỉ thị 408 đề cập đến sự phát triển nghề trồng dâu nuôi tằm trong
cả nước. Chúng tôi về thăm Bách Thuận vào độ cuối xuân. Cả xã đang rộn ràng vào
lứa tằm đầu mùa. Trong hai mươi bốn đội sản xuất, đội nào cũng có buồng nuôi
tằm. Đội ít nhất cũng có mười buồng, đội nhiều nhất tới năm chục buồng. Toàn xã
có trên một ngàn buồng nuôi tằm, con số không hề nhỏ so với nhiều xã khác. Khi
nói chuyện với bà con, chúng tôi được biết trước đây giá thu mua sự khuyến
khích sản xuất như cung cấp vật tư, giúp đỡ kỹ thuật của nhà nước cũng có nhiều
hạn chế nên bà con không hồ hởi trồng dâu nuôi tằm. Hơn nữa, trước đây hợp tác
xã quản lý mọi khâu nên cây dâu chết dần. Xã viên lo chăm trồng những cây khác
có lợi hơn. Nhưng nhờ khâu tháo gỡ chung trong nền kinh tế hiện nay, từ năm
1981, hợp tác xã Bách Thuận thực hiện khâu khoán sản phẩm trong việc trồng dâu
nuôi tằm. Chính sách mới có thưởng, có phạt nên bước đầu đã đạt và vượt chỉ
tiêu kế hoạch về sản lượng tơ kén. Bà con phấn khởi nên xu thế trồng dâu nuôi
tằm trong toàn xã lại phục hồi phát triển.
Gặp các đồng chí lãnh đạo địa phương,
chúng tôi hỏi kinh nghiêm trong công tác vận động bà con trồng dâu nuôi tằm.
Các đồng chí cười và phân trần:
- Buổi đầu cũng cực lắm các anh ạ. Làm
cho toàn cấp uỷ nhất trí trong công tác trồng dâu nuôi tằm đã khó khăn. Ra đến
xã viên càng khó khăn hơn. Tính toán làm sao khi trồng dâu chăn tằm mà không
ảnh hưởng đến rau, đến thời vụ các loại cây khác của nhân dân. Được cái khi bà
con đã thông và nhất trí thì họ làm hết sức mình. Nói chung năm 1981 có
gặp nhiều khó khăn, nhưng đã đạt được
sản lượng non tám chục tấn kén, trong số đó có gần bốn tấn kén trắng giá trị
gấp đôi kén vàng là điều đáng khích lệ.
Chúng ta thường quen nói tơ vàng. Kén
trắng sẽ cho tơ trắng. Khi nghe chúng tôi thế nào là tơ trắng, tơ vàng, các
đồng chí cho biết:
- Tằm nội của ta là giống nguyên cổ
truyền, đa hệ nên chỉ kén màu vàng, mỏng tơ, độ dài sợi tơ ngắn nên khó ươm tơ
bằng máy. Còn giống tằm lai, tằm lưỡng hệ cho kén màu trắng, kén to, độ dài của
sợi tơ ba bốn mét rất thuận tiện cho việc ươm tơ bằng máy. Hiện nay, thị trường
thế giới chuộng tơ màu trắng, nên tơ vàng muốn xuất khẩu cũng phải tẩy cho
trắng. Hợp tác xã Bách Thuận đang dần dần nâng tỷ lệ tơ trắng lên. Thắng được
thói quen không dễ gì các đồng chí ạ.
Chúng tôi đi thăm đồng bãi. ánh nắng
ban mai dịu nhẹ trong màu xanh của cây cối. Bờ bãi Bách Thuận nhô ra phía sông
Hồng như cái lườn của một chú gà béo ngậy. Đang độ xuân, bãi dâu tơ ngút ngát
mầu xanh. Và đúng như câu ca: "ngàn dâu xanh ngát một màu". Có màu
xanh của lúa, của ngô, rau, khoai, đỗ... Nhưng màu xanh của dâu áp đảo bãi bờ
để cho ngày mai "tằm lên tuổi kén". Táo có màu xanh sáng. Ngâu có màu
xanh thẫm. Ngô có màu xanh mơ.. còn dâu có màu xanh non mượt như một loại rau
có thể thái xào ăn được ngay. So với dâu Phù Lưu Tế của Hà Sơn Bình hay một số
nơi khác, thì dâu của Bách Thuận không tốt bằng vì có xen cây ăn quả. Theo cụ
Thành cho biết, trước đây Bách Thuận trồng nhiều loại dâu. Kém nhất là loại dâu
gỗ mình đây, lá nhỏ lại mỏng còn gọi là dâu chân vịt vì lá nó chẻ ra như cái
chân vịt vậy. Dâu gỗ cho năng xuất kém, lá bé nên không hái mà phải tuốt rát cả
tay. Các loại dâu cũ năng xuất nói chung thấp. Nếu nuôi mười nong tằm, thì phải
mười ba người hái lá mới đủ cho tằm ăn. Nếu trồng giống dâu mới, thì mười nong
tằm chỉ cần bốn người hái lá là đủ. Một sào dâu cũ chăm bón tốt, được khoảng
bốn mươi kg lá. Trong khi đó, một sào dâu mới cho tới chín mươi kg lá. Đem so
sánh hai loại dâu thì dâu mới có nhiều cái lợi khác như độ dày của lá dâu,
nguồn chất đốt... Cụ Thành đáp lại câu hỏi của tôi:
- Dâu này không mới lắm đâu. Nó đã có
trên bốn mươi năm rồi. Đó là loại dâu bầu trắng. Còn có dâu bầu đen và dâu bầu
đá nữa. Dâu bầu trắng lá to hơn và chịu lụt chịu úng tốt hơn. Vừa nói, cụ vừa kéo chúng tôi ra vườn để
thhạp mục sơ thị, nói có sách, mách có chứng. Nhìn vào cây dâu và lá dâu bầu trắng
cụ Thành chỉ, tôi không tin vào mắt mình nữa. Lá dâu to đến kỳ lạ. Một đồng chí
trong chúng tôi nói đùa: "trông lá dâu ngỡ chiếc quạt của nữ sỹ Hồ Xuan
Hương thuở nào". Chúng tôi tò mò đo thử. Bề rộng lá dâu hơn một gang tay,
bề dài ngót nghét một gang rưỡi. Tôi nói với
cụ Thành là vùng sông Thu Bồn quê tôi cũng trồng dâu nuôi tằm nhưng tôi
chưa thấy loại dâu nào như thế này. Cụ Thành cho biết là Bách Thuận vừa đã bán
cho Quảng Nam Đà Nẵng trên một trăm tấn hom dâu giống bầu trắng này.
Bách Thuận có nhiều cụ giỏi trồng và
thâm canh dâu, như cụ Xô, cụ Kính, cụ Bảo, cụ Thành... Một số cụ bà đã mất. Lớp
trẻ bây giờ tiếp thu kinh nghiệm cũ của các cụ kết hợp với khoa học kỹ thuật
mới, nên tiến bộ nhanh trong việc dâu tằm. Chúng tôi cứ tưởng việc trồng dâu
đơn giản. Nhưng qua cụ Thành, chúng tôi thấy việc đưa cây dâu ra bãi cũng khá
phức tạp. Đất bãi phải dùng mai đào sâu ba mươi phân, phơi ải bốn năm nắng, đập
đất cho nhỏ, đảo lại cho đều, phơi vài nắng nữa, lại đập nhỏ. Sau đó giăng dây,
đánh hàng, đào rãnh cho thẳng. Mỗi hàng rãnh cách nhau một mét tám. Mặt rãnh
rộng bốn mươi phân, đáy ba mươi phân và sâu hai mươi phân. Khi trồng, dưới đáy
rãnh đặt từ sáu đến bảy hàng hom dâu. Nếu đồng đất hơi chua thì đặt hon dâu
chếch nghiêng hai mươi lăm độ, cho thò đầu lên mặt đất một chút. Nếu đất chưa
làm nhỏ, khi làm xong phải dẫm lên cho chặt để tránh nắng, hom khô. Còn giống
hom thì phải chọn cây dâu to bằng xe điếu hoặc ngón tay út. Lớn quá dâu không
mọc mần. Hom dâu giống cũng không nên chặt dài. Hơn kém một gang tay là vừa.
Trên vồng thì trồng xen hai hàng đỗ hoặc xu hào... Trồng dâu nhất thiết phải
trồng trước đông chí, để lập xuân là dâu mọc. Trồng sau đông chí dâu sẽ chết.
Phải bón phân tằm, phân chuồng, tuới nước pha loãng thì cứ sau mười lăm ngày
hái được một lứa lá. Sau khi hái phải bón phân để thúc mần cho lá nở khoẻ. Muốn
lấy lá dâu khum cuối năm, phải chăm bón tiếp rồi mới khum thì năng xuất mới
cao.
Chúng tôi kể cho cụ Thành nghe chuyện
phụ nữ Lạc Sơn của Hà Sơn Bình, mỗi gia đình đã trồng từ hai đến ba chục gốc
dâu phân tán quanh vườn. Năm đầu mỗi gốc cho từ hai đến ba kg lá. Từ năm thứ
hai mỗi gốc cho từ 10 – 15 kg lá, đủ nuôi tằm thu từ 10 đến 15 kg kén, kéo được
non 2kg tơ để dệt được từ 7 đến 10 mét lụa. Cụ Thành bảo đúng là nghề trồng dâu
nuôi tằm phải tiến hành cả ba khu vực quốc doanh, tập thể và gia đình. Đối với
gia đình, nó là nghề phụ ít vốn, ít vật tư mà lại thu nhiều lợi. Cho nên việc
trồng dâu phân tán là đáng khuyến khích. Dâu bầu trồng ngoài bờ vườn hái lá
quanh năm. Về Bách Thuận vào mùa này chỉ thấy trên trời dưới dâu. Dâu xanh bãi
vườn. Đất sa bồi Bách Thuận lại rất hợp với cây dâu. Nói đến dâu là nói đến
tằm. Trồng dâu nuôi tằm là hai việc đi đôi với nhau như bóng với hình. Không
thể trồng dâu chỉ để lấy lá đi bán, và cũng không thể nuôi tằm mà chỉ đi mua lá
dâu. Tục ngữ có câu “trăm dâu đổ đầu tằm” trong đó có ngụ ý nói đến cái lợi ích
tương hỗ giữa dâu và tằm. Bách Thuận từ khi hợp nhất xã, qua sáu năm trồng dâu
nuôi tằm, đạt sản lượng gần 80 tấn kén một năm. Với gần 100 ha trồng dâu và hơn
1000 buồng tằm mỗi vụ sản lượng cũng như năng xuất tơ tằm của Bách Thuận đang
còn nhiều hứa hẹn.
Tôi đến thăm cụ Phó Lương. Nghe cụ kể
chuyện tơ tằm, biết cụ là người nuôi tằm nhiều kinh nghiệm. Các đồng chí lãnh
đạo xã cho biết cụ Phó Lương là một trong những người có tay nghề nuôi tằm có
năng xuất cao trong toàn xã Gia đình cụ có nghề nuôi tằm cổ truyền nên cụ biết
nuôi tằm thừ thuở nhỏ. Cụ đã kể cho chúng tôi nghe về vòng đời của con tằm là
từ 50 đến 60 ngày tuỳ theo thời tiết và từng loại tằm. Loại tằm đa hệ cổ truyền
của ta trước đây một năm nuôi được tám đến chín lứa, nhưng thường hỏng mất một
nửa do bệnh gai, bệnh bủng, bệnh trong... Giống lưỡng hệ có năng xuất cao,
nhưng chỉ nuôi được hai lứa trong vụ đông xuân, vì chúng không chịu được nóng.
Nhưng giống tằm lai do trại giống tằm Trung ương phân phối thì mùa nào cũng
nuôi tốt. Cụ Phó Lương đưa chúng tôi xuống thăm buồng tằm:
-Các bác thấy đó, nuôi tằm vất vả và
phức tạp như nuôi con mọn. Tục ngữ có câu “Làm ruộng ăn cơm nằm, chăn tằm ăn
cơm đứng”, là nói lên cái vất vả và phức tạp đó. Nuôi tằm thời gian vất vả nhất
từ 25 đến 27 ngày. Đó là từ khi tằm nở đến khi tằm chín lên né và cho kén. Cụ
bảo, bây giờ trồng dâu nuôi tằm đều có sách, tiếp thu khoa học mới đã đành,
nhưng kinh nghiệm gia truyền cũng rất cần thiết. Đại khái, ai cũng biết từ khi
tằm nở đến khi tằm chín, tằm phải qua 5 tuổi và bốn lần lột xác. Nhưng cách
nuôi và phòng bệnh mỗi người có một cách riêng. Thông thường tằm kiến thì cho
ăn lá dâu bánh tẻ thái chỉ. Tằm lớn dần cho đến khi ăn rỗi thì thái một lá làm
ba. Lúc tằm ăn rỗi nghe rào rào như mưa, thích lắm. Giai đoạn tằm ăn rỗi cần
chú ý thay phân luôn và không được để tằm đói. Nếu lúc này tằm thiếu ăn một bữa
sẽ yếu và ảnh hưởng đến năng xuất tơ. Và khi tằm chưa đủ độ chín mà đã cho nên
né thì chúng sẽ cho kén bé và mảnh tơ. Nhìn những con tằm đang kéo kén trên né,
bất chợt tôi nhớ dến một bài hát thuở nhỏ ở vùng quê Thu Bồn tơ tằm của tôi: Làm tằm làm lãm/ Để lứa đầu năm/ Để tằm
tươi tốt/ Tằm từ ăn một/ Cho chí thức lên/ Vận khá làm nên/ Tràn nong tràn đũi/
Con tằm chắc nụi/ Cái kén vàng hườm/ Cái bán cái ươm/ Tơ tơ lụa lụa..
Ấy thế mà con tằm tạo ra một loại tơ
bền đẹp, chưa có một loại sợi thiên nhiên hay nhân tạo nào sánh kịp. Một con
tằm cho một lượng tơ bằng 1% trọng lượng
bản thân. Con tằm đúng là một bộ máy sinh hoá lý tưởng sản xuất ra protêin có
hiệu quả nhất. Nuôi tằm ngoài lợi chính là lấy tơ, còn có các nguồn lợi phụ
cũng không kém phần quan trọng như: nhộng, nước ươm tơ... Từ ba đến bốn chục
con nhộng có lượng trị giá protêin bằng một quả trứng. Nước ươm tơ có thể chế
ra nước chấm nhiều chất đạm, chế cả thuốc bổ và nhiều loại thuốc chữa bệnh
khác... mà nhà máy ươm tơ Thái Bình và nhà máy ươm tơ Sông Ninh đã làm. Một anh
cán bộ dâu tằm nói với tôi là, cứ một tấn kén ươm được khoảng 100 kg tơ các
loại và được trên 500 kg nhộng. Tôi nhẩm tính, Bách Thuân mỗi năm có từ 80 đến
100 tấn kén thì sẽ có tới 50 tấn nhộng. Nếu bán rẻ với 20 đồng/kg thì cũng đã
thu 1.000 đồng.
Chúng tôi đi thăm chợ Bách Thuận, dâu
lá bán la liệt. Một đồng chí trong đoàn chúng tôi đùa với một cô gái đang mua
dâu: “Thương tằm cởi áo bọc dâu/ tưởng tằm có nghĩa hay đâu bạc tình”. Cô gái
ngẩng lên nhìn chúng tôi cười và nhanh nhảu chữa lại vế sau: “Thương người ngả
nón bắc cầu mới sang”. Rồi cô nói với chúng tôi, khi bị hỏi vì sao nuôi tằm mà
không trồng dâu:
-Lứa tằm nhà em vụ này được quá, mấy
dâu cũng không đủ. Tằm sắp lên né mà thiếu ít lá dâu nên phải mang tiền chạy ra
chợ các anh ạ. Dâu chợ mỗi ngày một giá. Hôm qua 6 đồng/kg, hôm nay xuống 5 đồng/kg.
Biết đâu ngày mai lại lên 7 đồng, đúng là thị trường tự do.
Chúng tôi tình cờ gặp một cán bộ quen.
Anh rủ chúng tôi đến thăm cụ Toán. Đó là một gia đình nuôi tằm giỏi. Cụ vừa qua
đời. Mùa này cụ bà vẫn tiếp tục nuôi tằm như cụ ông còn sống. Đất vườn nhà cụ
Toán trước đây xấu lắm, cây dâu không lên. Cả nhà phải đi khuân đất thịt ở bãi
sông về cải tạo để trồng dâu nuôi tằm. Một gương lao động và yêu tằm dâu đáng
kính nể. Cụ bà kể chuyện nuôi tằm. Theo cụ nghề này cũng cần vật tư như than để
sưởi, vôi để chống ẩm cho tằm, thuốc trừ nhặng... Cái anh nhặng là nguy hiểm
cho tằm lắm. Trứng nhặng lẫn trong tằm khi vào kén thì tơ kéo không thành sợi.
Cho nên nhà nuôi tằm chẳng những phải diệt cóc, kiến mà còn phải che chắn anh
ruồi nhặng. Trước kia phải dùng mành, gần đây có loại thuốc ngoại BI.58 chống
nhặng tốt lắm. Cụ nói chuyện rành rẽ như một nhà khoa học thực thụ. Ngoài sân
nhà cụ, chúng tôi thấy tằm đã lên né đang hong nắng ở sân. Tôi chú ý, ngoài các
né hom dâu, né rơm kiểu lồng gà, cụ còn dùng loại né có hai mái như hầm chữ A,
ở giữa đan dích dắc những chiếc nan, thoạt trông như cái cầu ong. Bà cụ cho
biết, đây là loại né cải tiến. Dùng loại né này khi tằm chín đều, treo lên được
thoáng gió, vì thiếu không khí thì tằm cho tơ kém. Nhưng loại né này có cái bất
tiện là hao tơ vì tơ dính nhiều vào né.
Hợp tác xã Bách Thuận có nhiều cơ ngơi
sản xuất nghề tiểu thủ công. Nhưng cơ ngơi lớn nhất là xưởng ươm tơ. Đó là cơ
sở cũ của nhà máy tơ tằm tỉnh sơ tán
trước đây, để lại. Xưởng ươm tơ có trên 230 người và mỗi người một ngày
được hợp tác xã trả trên 6 đồng tiền công, kể cả tiền năng xuất. ở đây cũng có
nhiều tổ sản xuất tiên tiến, như tổ ươm tơ cải tiến của cô Định, tổ ươm tơ gốc
của cô Bính, rồi tổ cô Mùi, tổ ươm thủ công của bà Tuấn... cơ ngơi xưởng ươm đã
lớn, thế mà cấp uỷ ở đay đang dự định mở rộng. Các đồng chí lãnh đạo của Bách
Thuận nói:
-Trụ sở uỷ ban, trụ sở của ban quản
trị có thể chật một chút cũng chưa sao, nhưng nhà trẻ và những cơ sở dành cho
sản xuát thì phải bề thế và được đầu tư đày đủ, ưu tiên xây dựng. Trước mắt
chúng tôi lo cái nhà nuôi tằm và ươm tơ. Cây dâu và con tằm đối với nhân dân
Bách Thuận hôn nay là nguồn sống. Cái khó khăn ban đầu chúng tôi đã vượt qua.
Công việc trồng dâu nuôi tằm hiện nay là kế quốc dân sinh.
Sự vất vả của Bách Thuận, bước đầu đã
vượt qua. Từ cái bất đồng hôm nào đến cái nhất trí hôm nay trong cấp uỷ ra
ngoài nhân dân phải qua một quá trình đấu tranh và cái lợi thực tiễn của trồng
dâu nuôi tằm đã giải đáp mọi mắc mứu. Cũng như trong quá trình chăn tằm, ở giai
đoạn đầu nhiều khó khăn vất vả. Đến khi tằm rộ chín và lên né là nắm chắc chín mươi phần trăm thắng
lợi. Hơn nữa Bách Thuận có nhiều thế mạnh, trong đó số một là nghề dâu tằm. Đất
sa bồi với cây dâu, lại có nghề nuôi tằm cổ truyền, Bách Thuận sẽ mở ra một
hướng mạnh về tơ tằm. Sắp đến, Bách
Thuận không phải chỉ có sản lượng 80 hay 100 tấn kén năm, mà phải gấp nhiều lần
con số đó. Bách Thuận còn nhiều tiềm năng để tơ tằm phát triển, vì Bách Thuận
có một đội ngũ cán bộ đoàn kết nhất trí và một lực lượng quần chúng biết biến
không thành có.
Bách Thuận, 1982
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét