TRẦN
NGUYÊN VẤN
Hôm mồng 6 tháng giêng ở thôn Hạ Lôi,
xã Mê Linh (huyện Mê Linh, Hà Nội) cách Bách Thuận theo đường chim bay chừng
100 km, chúng tôi được dự lễ tế cờ tại đền thờ Hai Bà Trưng. Theo truyền
thuyết, khi đứng lên khởi nghĩa chống bọn thống trị nhà Hán, ngày mồng 6 tháng
giêng, Hai Bà làm lễ tế cờ để hôm mồng 7 khao quân trước khi ra trận. Giữa mùi
hương trầm ngào ngạt, mười cô gái đầu chít khăn đỏ, mặc áo dài đủ các mầu vàng,
đỏ, xanh, lục, người bưng tráp có lồng kính đựng đôi hài, người thành kính dâng
hương thơm trong tiếng kèn, tiếng trống, tiếng nhị, tiếng chuông.
Hai hôm sau chúng tôi được dự lễ tế ở
đền thờ bà Hồ Đề, một nữ tướng của Hai Bà Trưng tại xã Tràng Việt ngoài đê sông
Hồng, bên cạnh xã Mê Linh. Không khí trang nghiêm gợi nhớ những năm tháng hào
hùng xa xưa của đất nước. Chúng tôi xúc động nổi gai lên khi cúi đầu mặc niệm.
Về Bách Thuận lần này vào dịp trung
tuần tháng giêng, anh bạn cao tuổi của chúng tôi đọc bản chữ Hán rồi dịch ra
cho chúng tôi nghe những sắc phong của
thời vua Lê Cảnh Hưng, thời vua Nguyễn Quang Toản và một số vua triều Nguyễn
cùng cuốn thần phả ghi lại sự tích của công chúa ả Lữ Phương Dung, một vị tướng
của Hai Bà Trưng những năm 40 đầu công nguyên.
Lập đền miếu thờ các vị anh hùng dân
tộc, những người có công đánh giặc ngoại xâm là một trong những biểu hiện đẹp
đẽ của lòng yêu nước và lòng biết ơn của nhân dân ta. Theo cuốn thần phả ấy
thập đạo tướng quân Lê Hoàn trước khi đi đánh bại quân Tống đã có một đêm nghỉ
lại trong miếu thờ ả Lữ Phương Dung ở Thuận Vy trang. Lê Hoàn đã khấn công chúa
phù hộ cho đạo quân của mình đánh thắng quân xâm lược nhà Tống và ông hứa khi
trở về sẽ có những sắc phong cho ngôi miếu...
Thuận Vy trong thuở xa xưa ấy, làng
Gòi bên kia sông và xã Bách Thuận ngày nay trải qua bao sự biến đổi của đất đai
sông bãi, qua bao biến thiên của lịch sử vẫn mang trong lòng mình ngọn lửa
thiêng liêng của lòng yêu nước. Giặc đến nhà trẻ già đều đánh, các thế hệ nối
tiếp nhau đứng lên đánh Pháp rồi đánh Mỹ. Các đồng chí Nguyễn Kim Điện, Nguyễn
Như Việt và nhiều người con của Bách Thuận có mặt trong suốt mấy cuộc chiến
tranh. Một vinh dự cho gia đình anh Điện, năm 1970, đồng chí tổng bí thư Lê
Duẩn đã đến thăm ông bà thân sinh anh.
Cây đa cổ thụ và ngôi chùa bên cạnh
con đê làng đã chứng kiến bao lần ra quân của các chiến sỹ Bách Thuận. Nhiều
bậc cha mẹ, nhiều người vợ, người yêu, nhiều đứa con lưu luyến tiễn đưa người
thân ra trận. Có anh thanh niên vốn nghịch ngợm từ bé trèo lên ngọn đa, bò ra
xa bíu lấy cành nhỏ mà đu, cành đa vốn rất dai, rồi buông tay nhảy ùm xuống ao
trước con mắt ngơ ngác của dân làng. Nhiều người tưởng anh tìm cách bỏ trốn.
Đồng chí xã đội dẫn quân lên giao cho huyện lo thiếu quân. Nhưng không, chỉ một
loáng anh đã chạy về nhà thay bộ quần áo mới trở ra đứng vào hàng ngũ cùng anh
em hăng hái lên đường. Những năm giặc Mỹ mở rộng cuộc chiến tranh ra cả nước,
hưởng ứng lời kêu gọi thiêng liêng của Bác Hồ “Không có gì quý hơn độc lập tự
do”, lớp lớp chiến sỹ Bách Thuận đi chiến đấu. Nhiều người vừa ở quân đội trở
về làng xung phong tái ngũ. Nhiều bố mẹ tiễn hết đứa con này đến đứa con khác
cho đến đứa con trai cuối cùng. Bà Nguyễn Thị Nhị, vợ liệt sỹ Nguyễn Văn Bồng
thời chống Pháp, cho cả bốn con tai là Ngát, Cầm,Thân, Xiêm vào bội đội.
ở tuổi ấu thơ, bốn anh em Trần Quang
Khôi trải nhiều gian nan cơ cực. Mẹ mất sớm, bố bị giặc Pháp bắn chết trên bãi
sông Hồng trong trận càn ngày 14/03/1949. Bốn anh em được vợ chồng người bác
nuôi và tự đùm bọc lấy nhau. Năm 1950, một đơn vị bộ đội về đóng trong làng.
Tuy nhỏ tuổi, nhưng nhớ đến mối thù giặc Pháp, Khôi xin anh chỉ huy được lên
đường. Đơn vị bơi qua sông Hồng, Khôi cũng bơi theo. Còn bé, Khôi giúp các anh
làm cấp dưỡng. Lớn lên một chút, Khôi làm liên lạc, rồi trở thành anh vệ quốc
đoàn tham gia chiến đấu và bị thương trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Tiếp bước
anh, ba người em trai đều đi chống Mỹ. Nhà nghèo có hôm phải nhịn đói đi học,
nhưng Trần Xuân Lập vẫn ham học và chịu khó. Năm 1963, đang học lớp 7, Lập cùng
bạn bè ở trường xung phong đi bộ đội. Trở thành chiến sỹ pháo binh, anh chiến
đấu bên cạnh các chiến sỹ Pathét Lào ở Khăm Muộn và bị thương. Điều trị xong,
Lập học tường sỹ quan rồi vào Nam chiến đấu. Một đêm tháng 10/1973, đại uý Trần
Xuân Lập hy sinh trong một trận chỉ huy chống càn. Trần Quốc Tuấn, đứa em út
của Khôi mới 17 tuổi đã tình nguyện vào hải quân. Trở thành chiến sỹ trinh sát
đặc công, Tuấn chiến đấu và hy sinh ở miền Nam năm 1968.
Chiến tranh bao giờ cũng là sự thử
thách lớn lao của cả dân tộc và của mỗi con người. Phải vượt lên trên tất cả
những thử thách ấy để đứng vững. Chính trong những hoàn cảnh khốc liệt ấy đã
nảy sinh những hành động thấm đượm chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Phạm Xuân Cự,
con của bác Phạm Văn Soạn đội 20 vào bộ đội năm 1963. Trong hút bom sâu, thần
kinh căng thẳng, với tất cả nhiệt tình và trí thông minh của mình, Cự tìm cách
phá bom nổ chậm của Mỹ. Mỹ gieo chết chóc, Cự đi diệt cái mầm chết chóc đó.
Trong giây phút căng thẳng ấy, ranh giới giữa sự sống và cái chết còn nhỏ hơn
sợi tơ tằm quen thuộc ở quê nhà. Cự khôn khéo diệt từ trong trứng cái mần tội
ác. Anh đã phá được 14 loạt bom nổ chậm của Mỹ. Trong lần phá bom gay go nhất,
anh mặc một bộ quần áo mới. Với nét mặt trầm tĩnh, Cự đứng với đơn vị đang làm
lễ truy điệu anh trước khi anh đi vào mặt trận thầm lặng. Cự thanh thản trong
bộ quần áo mới như Nguyễn Văn Trỗi thanh thản trong bộ quần áo trắng khi bước
ra pháp trường. Qủa bom nằm dưới đất sâu kia bao giờ sẽ nổ? Anh sẵn sàng nhận
sự hy sinh để cứu đồng chí, đồng bào. Trong giờ giáp mặt với cái chết, cái phẩm
chất tốt đẹp của người chiến sỹ được bộc lộ một cách rõ nhất. Cũng chính trong
lần phá bom thứ mười lăm ấy, Phạm Xuân Cự đã anh dũng hy sinh.
Giữa tuổi 21, Nguyễn Đình Tân ngã
xuống trên vùng Do Mỹ, huyện Do Linh. Trịnh Văn Phủng, người con trai độc nhất
của cụ Trịnh Văn Giang, chủ tịch mặt trận xã hiện nay hy sinh trong khi anh
đang hộ tống những đồng chí thương binh về bệnh viện. ác liệt gian khổ mỗi nơi,
mỗi lúc có khác nhau, đòi hỏi mỗi người chiến sỹ phải bền bỉ vượt lên để giữ
vững tinh thần.
Trong những năm đánh Mỹ, tôi đã từng
sống với nhiều đơn vị trong đó có đơn vị của Phạm Văn Thưởng ở chiến trường Trị
Thiên Huế những năm sau mùa xuân 1968. Đó là những ngày máy bay lên thẳng của
sư đoàn kỵ binh bay và lính thuỷ đánh bộ Mỹ luôn luôn đánh phá cả rừng núi,
đồng bằng, giáp gianh. Máy bay B52 dội từng thảm bom dài. Bên cạnh cái ác liệt
của bom đạn, việc đói cơm và thiếu muối đe doạ người chiến sỹ hàng ngày. Mọi
người một mặt phải nhường nhau từng nắm rau rừng, từng viên thuốc chống đỡ vơí
bệnh tật, mặt khác phải lo phát rẫy, gùi gạo, trồng sắn, trồng ngô để đứng vững
trên tuyến giáp ranh, thọc vào hậu cứ địch những đòn hiểm cho đến ngày toàn
thắng.
Từ giã bến đò Thuận Vy bên sông Hồng,
những người con của Bách Thuận đến với những dòng sông của cả nước. Người canh
giữ cầu Long Biên và bầu trời Hà Nội, người bám trận địa sông Cấm Hải Phòng,
người lo bảo vệ cầu Hàm Rồng trên sông Mã, người giữ cảng sông Gianh, người kéo
tên lửa đến bên dòng sông Thạch Hãn, người đánh tầu giặc trên sông Hương, người
lặn lội trên sông Thu Bồn lo chống càn, sông Pô Cô, sông Tây Ninh, sông Bé,
sông Vàm Cỏ, Tiền Giang, Hậu Giang... khắp mọi nơi người dân Bách Thuận đều góp
phần xương máu của mình đánh đồn, diệt ác, đánh phá “bình định” của giặc. Thật
khó khăn mà kể hết chiến công trong những năm đánh Mỹ của 1176 quân nhân Bách
Thuận trên các mặt trận từ Bắc chí Nam và trên cả chiến trường các nước bạn.
Người Bách Thuận đi chiến đấu không
lúc nào nguôi nhớ về quê hương. Trong chiến tranh, hậu phương bao giờ cũng là
nhân tố thường xuyên quyết định thắng lợi ở tuyền tuyến. Các anh nhớ về những
con đường làng dịu toả bóng táo, bóng ngâu, nhớ những bãi dâu mùa nước nổi...
và trước hết là khuôn mặt người thân. Cạnh con suối chảy róc rách giữa rừng già, nhiều chiến sỹ trẻ lấy
một gói hoa ngâu khô lâu nay cất kỹ trong ba lô chuyền cho bạn bè thưởng thức
mùi hương ngan ngát rồi say xưa nói về làng mình, về người yêu cùng những dự
định tương lai... Giữa hai trận đánh, ánh mắt người chiến sỹ trở lên xa xăm khi
nghĩ về đứa con mà anh chưa biết mặt. Gìơ này, vợ anh chắc đã gửi con vào nhà
trẻ và đang bận rộn với những nong tằm ăn rỗi... người ở tiền tuyến lắng nghe
qua Đài tiếng nói Việt Nam tin từng cơn bão đổ vào đồng bằng Bắc bộ, về đợt gió
mùa đông bắc, tin cơn lũ sông Hồng với những thắc thỏm lo âu...
Cơn bão lớn năm 1968 vừa tràn qua,
nước ngập ngay vào xã. Nhiều vườn cây ăn quả bị chết rũ. Lại mùa lũ năm 1971,
trận lũ hàng chục năm trời mới có. Nước ngập cả mái nhà, nóc nhà trong xã. Giặc
Mỹ mấy lần ném bom bi, bom xuyên vào làng. Mọi hậu quả của bão lụt, của chiến
tranh dồn lên đôi vai gầy của người phụ nữ đảm đang ở hậu phương.
Làm sao nói hết tấm lòng của mẹ trong
đêm chia tay con. Mẹ bảo ngày xưa con mẹ ra trận, đến một vùng đất xa xôi mà mẹ
chưa từng biết tới. Đứa con 17, 18 tuổi của mẹ đôi gót đỏ hồng chưa hề quen với
gai góc, sỏi đá... sẽ xông vào mũi tên hòn đạn của nhiều trận đánh và có thể
nằm lại ven rừng góc biển hay một thành phố nào đó... Mẹ vẫn giục con yên tâm
ra đi, cố theo kịp đồng đội, đừng làm điều gì để bố mẹ và làng xóm phải hổ
thẹn.
Ngày chống Mỹ, chợ Thuận Vy họp phân
tán trên các con đường làng. Mẹ vẫn quen đội các thúng táo, thùng dâu, các bó
khoai nước ra chợ. Nhà neo người, quen tính hay lam hay làm mẹ chẳng nề thức
đêm chăn tằm, nuôi lợn. Nguyễn Thị The, người con gái đất Trung Hoà tiễn chồng
đi bộ đội lúc hai mươi tuổi. Trong từng gánh đất đắp ụ súng ở Việt Hùng, trong
những ngày đêm đi trực chiến của chị Nguyễn Thị Hoà cùng bao nhiêu chị em khác,
tình cảm đối với chồng đi xa tăng thêm sức mạnh cho các chị. Cũng như chị Phạm
Thị Nữ và vợ liệt sỹ Ngô Văn Luyến, chị The gắng công tác ở địa phương và nuôi
dạy con. Chị trở thành đảng viên cộng sản và liên tục được bầu làm uỷ viên ban
quản trị hợp tác xã bốn khoá liền, đồng thời là uỷ viên ban chấp hành Hội liên
hiệp phụ nữ xã. Năm 1968, đồng chí Trịnh Xuân Phong, chồng chị hy sinh ở miền
Nam. Đứa em trai duy nhất của anh chị được chị nuôi dạy đã trưởng thành giờ
đang học ở cộng hoà dân chủ Đức. Thấm thía nỗi đau xót của một thời nô lệ và
những ngày chết đói năm 1945, những ngày giặc Pháp chà xát khi chúng tạm chiếm
trở lại, những người dân Bách Thuận thúc dục người thân cầm súng đi đánh Mỹ.
Gia đình bà Cầu, ông Hiểu có bố là
liệt sỹ chống Pháp, con là liệt sỹ chống Mỹ. Còn biết bao gia đình khác ở Bách
Thuận như gia đình các ông Nguyễn Đình Thiệp, Nguyễn Đình Khiêm, Phạm Văn Kỷ, Phạm
Văn Khoát, Nguyễn Như Thoại, Nguyễn Văn Trai...các bà Trần Thị Diệu, Trịnh Thị
Phê... đã cống hiến cho tổ quốc những đứa con yêu quý của mình. Mỗi người ở mỗi
ngành đều thấy có công sức mình đóng góp vào sự nghiệp chống Mỹ cứu nước. Một
cân thóc, một lứa kén... cũng như một bản thiết kế cầu cống, một công trình
nghien cứu tầng điện ly, một bài giảng trên lớp, một ca mổ thành công trong bệnh viện... tất cả giống
như những lớp phù sa bồi đắp thêm cho vẻ đẹp vật chất và vẻ đẹp tinh thần của
quê hương.
Mấy mươi năm trước, người Bách Thuận
phải tha phương cầu thực. Nhiều người phải đau đớn rời bỏ quê hương đi làm phu
mỏ, phu đồn điền cao su ở Nam Kỳ, phải ký giao kèo đi phu ở Tân Thế Giới. Sau
ngày miền Bắc hoàn toàn giải phóng, ở Tân Thế Giới những người dân Bách Thuận
xiết bao vui mừng và cảm động khi được biết đồng chí Vũ Hoàng vị đại diện của
chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà sang đón Việt kiều về nước lại chính là
người làng mình. Lá rụng về cội. Những con chim lìa tổ lại từ giã đất khách quê
người trở về nơi chôn rau cắt rốn. Các bác Nguyễn Văn Đổng, Nguyễn Văn Khâm,
Nguyễn Văn Thiều, những Việt kiều về nước ngày ấy cũng đều có con đi bộ đội
chống Mỹ và đã hy sinh vẻ vang cho đất nước.
Đến thăm gia đình cụ Phạm Văn Phê, tôi
lắng nghe người cha đã tám mươi tuổi nói về hai liệt sỹ con của cụ là Phạm Bá
Thăng và Phạm Văn Nghinh hy sinh ở miền Nam. Hôm nhận được giấy báo tin Phạm Bá
Thăng hy sinh ở miền Tây Quảng Trị, chính là lúc cụ đang đi vận động tuyển
quân. Lòng đau xót nhưng cụ vẫn bình tĩnh vừa lo sắp xếp cho các cháu ra trận,
vừa lo mời các bà các chị đến để an ủi cụ bà lúc nghe báo tin con hy sinh.
Năm trăm cán bộ chiến sỹ quân đội nhân
dân từ các chiến trường chống Mỹ trở về hiện nay đã trở thành lực lượng lòng
cốt trên mặt trận mới ở quê nhà. Hầu hết các đồng chí đảng uỷ viên của Bách
Thuận có từ hai, ba đến mười năm hoạt động ở các chiến trường đánh Mỹ. Đằng sau
cái tên của mỗi đồng chí bí thư chi bộ, của mỗi uỷ viên hội đồng nhân dân xã...
là những năm tháng gian khổ và oanh liệt.
Giữa trăm nghìn công việc ngổn ngang
và phức tạp của làng nước, đảng bộ Bách Thuận đoàn kết nhất trí, tìm ra những
phương thức quản lý kinh tế tốt nhất để xây dựng xã vững mạnh, lo cho gần một
vạn mốt dân một đời sống ngày một tốt hơn.
Hai mươi bảy liệt sỹ chống Pháp và hai
trăm ba mươi bảy liệt sỹ chống Mỹ của Bách Thuận đã nằm lại trên nhiều vùng đất
của tổ quốc và hoà vào trong màu xanh bất tử của đất nước, của quê hương hôm
nay trong cây vườn dâu bãi.
Giữa các sắc màu của lúa, dâu, táo,
ngâu, nhãn, vải, cam, quýt... của Bách Thuận, tôi bắt gặp lại ngọn lửa yêu nước
dấy lên từ thời Hai Bà Trưng. Ngọn lửa thiêng liêng truyền qua chín năm chống
Pháp, hai mươi năm chống Mỹ và đang rực cháy lên trong mỗi trái tim của mỗi
người dân đang xây dựng chủ nghĩa xã hội ở đây.
Chính lúc những người con của Bách
Thuận vượt Trường Sơn chia lửa với các chiến trường chống Mỹ ở miền Nam thì bác
Phạm Hồng Thấm, người cộng sản đầu tiên của xã, một trong những đảng viên của
Đảng cộng sản Việt Nam, nguyên Thường vụ xứ uỷ Nam kỳ những năm 1940, đã vượt
Trường Sơn ra Bắc. Bác Thấm là người có công lớn trong việc xây dựng Đảng bộ
Minh Hải. Bác Thấm cũng đã từng bảo vệ đồng chí Lê Duẩn trong những năm đen tối
dưới thời Mỹ Diệm. Năm 1971, vợ chồng bác được Trung ương cục cho ra Bắc chữa
bệnh, và bác đã mất ở bệnh viện Việt Xô. Những thế hệ con em của bác, của Bách
Thuận đang tiếp bước bác, quyết tâm xây dựng và giữ gìn những mùa xanh của quê
hương đang không ngừng sinh sôi nảy nở.
Bách Thuận, 4/1982
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét