Bút ký của ĐỨC HẬU
trên năm mươi ngàn cây ngâu cao to chỉ có ở riêng nơi này. Táo Bách Thuận, đặc biệt là táo Thuận Vy hàng năm bán la liệt từ bến đò Tân Đệ đến thị xã Thái Bình, sang thành phố Nam Định, theo các chuyến xe hành khách lên tận Hà Nội, và đi xa hơn nữa. Bảy mươi ngàn cây táo, mỗi cây thu được sáu mươi cân quả chín một vụ. Những nụ hoa vàng nhỏ lăn tăn như trứng cá chép của những cây ngâu bên đường qua tay hái của các cô gái Bách Thuận trở thành mười năm tấn hàng xuất khẩu khẩu quý hiếm hàng năm. Đi trong ngõ xóm làng Thuận Vy, chỉ nhìn thấy trời xanh qua kẽ lá và nghe đâu đây tiếng tằm thổn thức gặm lá dâu rì rào như âm vang của trận mưa xa.
![]() |
Nhà văn Đức Hậu
|
Bách Thuận là vùng đất còn thanh xuân,
đất trẻ và tuổi đất cũng còn trẻ. Dân Bách Thuận trước ở vùng Trường Nguyên,
Nam Định, phía bên kia sông. Vào một thời kỳ nào đó, sông Hồng đổi dòng, xói
mòn bên ấy, bồi đắp phía bên này. Dân làng đang sống bình yên bị sự xói mòn của
dòng sông đe doạ. Theo truyền thuyết, thời ấy có một người hàng ngày vượt sông
sang cánh bãi này chăn vịt, thả diều. Rồi người chăn vịt ấy đưa dân làng sang
đây đắp đập be bờ, đào ao, vượt thổ dựng nhà. Thấy vậy dân trong làng đệ đơn
kiện những người mới đến về việc chiếm đất. Khi quan trên về, ông chăn vịt liền
dẫn ra bãi đào những cột mốc bằng đá lên để chứng minh đất này là của dân làng
ông và ông đã thắng kiện. Thì ra khi thả diều, ông đã dùng dây diều đo đất và
bí mật chôn mốc từ trước. Tại làng Thuận Vy còn đền thờ ông tổ có công đưa dân
làng đi di dân lập ấp, gọi là ông quan Trương. Không rõ ông quan Trương có phải
là người chăn vịt trong truyền thuyết hay không, nhưng việc dời làng sang sông
của nhân dân Bách Thuận là có thật.
Tuy làng xóm hình thành đã lâu nhưng
nghề tằm vườn của nhân dân Bách Thuận đến gần đây mới phát triển. Trước cách
mạng tháng Tám, vùng này còn nghèo xơ xác, nhà rách, vách xiêu. Vườn tược lúc
đó chưa có, xung quanh các nhà còn um tùm những bãi khoai nước đầy muỗi dại và
những thùng đấu ngập nước. Cỏ giang và lau sậy tốt ngập đầu, nhung nhúc chuột
bọ và chồn cáo. Đường làng là những lối mòn lầy lội không đủ cho hai người đàn
bà chửa tránh nhau. Cả làng chỉ có bốn nóc nhà ngói của các nhà phú hào. Nạn
đói năm 1945 ở xã này cũng khủng khiếp như các nơi khác. Ngày nào cũng có vài
chục người chết đói ở chợ Thuận Vy. Năm đó cả xã chết đói mất hơn một nghìn
người. Tiếp theo nạn đói là cảnh đau thương của những năm giặc Pháp đóng bốt
trên đất này.
Ngày nay, đứng trước cảnh đẹp như một
khu du lịch, khó tưởng tượng được rằng mảnh đất này đã từng tiêu điều tan tác
trong những năm kháng chiến chống Pháp khốc liệt như thế nào. Những năm tháng đó
đã lùi vào dĩ vãng, nhưng kỷ niệm và dấu tích lịch sử của nó còn khắc sâu trong
lòng mỗi người dân nơi đây. Một buổi tôi cùng mấy cán bộ hợp tác xã ngồi uống
trà vui, tình cờ tôi được nghe một câu chuyện lý thú và khó quên. Người kể là
một thanh niên Thuận Vy đang công tác ở một cơ quan của tỉnh, hôm đó chủ nhật
về thăm nhà. Nhân lúc mọi người nhắc đến thời kỳ chống Pháp, anh liền kể câu
chuyện sau đây cho chúng tôi nghe
Sau ngày giải phóng miền Nam, anh đi
theo một đoàn cán bộ vào nghiên cứu vùng kinh tế mới Tây Nguyên. Tối hôm ấy
đoàn dừng nghỉ ở thị xã Buôn Ma Thuật. Anh rủ mấy người bạn đi tìm một địa chỉ
mà anh đã dò hỏi từ trước. Mấy người vào một tiệm ăn. Chủ tiệm là một lão già
hoạt bát, vừa vồn vã mời khách, vừa nhìn nhanh từng người. Anh thanh niên nhìn
chăm chắm vào chủ tiệm hồi lâu rồi đột ngột hỏi:
- Ông Việt, ông có nhận ra tôi không?
Lão chủ tiệm giật mình sửng sốt, nhưng
lại trấn tĩnh được ngay, lịch sự đáp:
- Xin lỗi chú, có lẽ chú nhầm tôi với
ai chăng?
Anh thanh niên rút khẩu súng ngắn đặt
lên bàn và quát:
- Tôi nhầm sao được, ông chính là cai
Việt người xã Bách Thuận di cư vào đây năm 54.
Lão chủ tiệm mặt như chàm đổ, mồ hôi
đầm đìa. Lão nói khàn khàn:
- Thưa ông tôi tên là Bắc, tôi không
biết ông Việt nào cả, tôi làm ăn lương thiện...
Anh thanh niên tiến đến gần lão chủ
tiệm lúc này đã tái nhợt như xác chết. Anh thong thả nói dằn giọng như đọc một
bản án;
- Ông không đội lốt nào lừa được những
người còn nợ máu với ông đâu. Ông đã giết bao nhiêu du kích xã Bách Thuận? Ông
chính là cai Việt đồn trưởng đồn Tân Đệ, thằng ác ôn đã giết bố tôi, tra tấn mẹ
tôi ở bốt Tân Đệ, đá một thằng bé sáu tuổi lộn xuống ao hồi năm 1951. Thằng bé
ấy giờ đang đứng trước ông đây! Tôi đến gặp ông để đòi nợ chứ không phải để ăn
nhậu cai Việt ạ!
Một cơn co giật làm bộ mặt cai Việt
biến dạng đi. Lão đổ xuống chiếc ghế mền nhũn ra. Đôi mắt dại đi của lão như bị
thôi miên không rời được khẩu súng ngắn lăm lăm trong tay người thanh niên. Lão
thều thào:
- Ông sẽ bắn tôi?
Nhưng anh thanh niên không bắn, sau
một vài phút im lặng căng thẳng anh bình tĩnh nói:
- Thôi được, cách mạng đã rộng lượng
cho ông sống thì tôi cũng tha chết cho ông. Vả lại bây giờ những loại người như
ông sống cũng như chết rồi.
Anh thanh niên tra súng vào vỏ rồi
cùng mấy người bạn rời quán.
Câu chuyện của người thanh niên gợi
nhớ lại thời kỳ kháng chiến chống Pháp khốc liệt của xã Bách Thuận cách đây
ngót ba mươi năm. Theo những hồi ước, những kỷ niệm của các đồng chí ở đây cho
biết, tôi đi tìm gặp những người đã tham gia du kích thời ấy, lần giở lại những
trang sử của vùng quê giờ đây đã trở nên giầu đẹp nhất tỉnh Thái Bình này.
Vào cuối năm 1949 giặc Pháp chiếm đóng
Nam Định chuẩn bị tấn công sang Thái Bình. Từ Nam Định sang Thái Bình đi đường
thuỷ phải qua ngã ba Thuận Vy, đường bộ phải qua phà Tân Đệ. Xã Bách Thuận về
địa thế trở thành cửa ngõ của tỉnh lúa mà quân viễn chinh Pháp đang muốn bình
định. Vì vậy, Bách Thuận phải hứng chịu những
hành động khiêu khích ngày càng căng thẳng của quân giặc. Chúng pháo
kích từ Nam Định sang, từ tầu chiến chạy trên sông Hồng vào. Ngày nào tầu giặc
cũng lượn xung quanh xã gọi loa vào dụ dỗ, doạ nạt. Trong xã có nhiều người
hoang mang, thu dọn nhà cửa, bán đồ đạc chuẩn bị chạy loạn. Bọn hào lý và bọn
phản động địa phương trở lên hống hách ngang ngược. Thời kỳ đó Bách Thuận đã có
một số người đi lính cho Pháp trước cách mạng tháng Tám. Một số trong bọn họ
được đóng lon cai, lon đội. Đời sống đang bình yên bỗng trở lên căng thẳng,
phức tạp. Đêm đêm bọn nguỵ quân cũ tụ tập ở nhà bọn hào lý cờ bạc, rượu chè đến
sáng.
Ngày 14/3/1949, hai tiểu đoàn lính Âu
Phi của quân đội viễn chinh Pháp bất ngờ vượt sông sang càn quét, đốt phá Bách
Thuận. Du kích xã vì thiếu vũ khí không cản được lực lượng đông gấp bội của
giặc. Chúng đốt phá nhà cửa, giết người rồi rút lui về bên kia sông.
Sau trận càn vừa để thăm dò, vừa uy
hiếp của quân giặc, không khí trong xã càng nặng nề. Những vành khăn tang của
những gia đình có người bị giết gieo vào những người khác tình cảm bi thương,
lo lắng. Trước tình hình ấy, đảng bộ Bách Thuận cấp tốc xin chỉ thị của huyện
uỷ để xác định phương hướng hành động. Đảng bộ Bách Thuận lúc đó đã có trên một
trăm đảng viên, tổ chức họp đại hội. Tình thế đã rõ ràng giặc sắp đánh sang,
quê hương sẽ bị giặc chiếm đóng. Nhiệm vụ của đảng uỷ là phải bám đất, đánh
giặc, giữ yên lòng dân để nhân dân thấy rằng dù trong đen tối vẫn có Đảng ở bên
cạnh, theo Đảng đến cùng, chờ ngày giải phóng. Đội du kích của xã được thành
lập để chuẩn bị chiến đấu, trấn áp bọn phản động, giữ yên cho nhân dân. Bọn
giặc cậy thế mạnh, hàng ngày ngang nhiên cho tầu chiến và ca nô chạy lập lờ
trên sông gọi bọn phản động ra làm tay sai cho chúng. Anh em du kích theo dõi
phát hiện được tên Quắc con một kỳ hào cũ trong xã lén lút lên tầu chiến họp
bàn với tên sỹ quan Pháp. Đêm hôm đó, du kích bắt tên Quắc. Hôm sau hắn bị uỷ
ban kháng chiến đưa ra sử bắn trước dân làng về tội phản quốc. Sau việc đó, bọn
phản động rất lo sợ. Không khí kháng chiến sôi sục ngày đêm. Nhân dân góp sắt
thép đi mời thợ rèn về rèn dao găm, kiếm và mã tấu cho du kích.
Một đêm cuối tháng 2/1950 quân viễn
chinh Pháp kéo sang Thái Bình bằng đường bộ và đường thuỷ. Cánh quân bộ của
chúng qua phà Tân Đệ tiến thẳng theo đường 10 vào thị xã Thái Bình. Cánh quân
thuỷ tiến theo sông Hồng xuống các huyện ven biển. Cả hai đạo quân giặc đi qua
Bách Thuận không tạt vào, không nổ một phát súng. Ba ngày sau đó chúng mới kéo
về đóng bốt Tân Đệ. Bọn giặc biết rõ địa thế quan trọng của Bách Thuận, nên
chúng cắm thêm một số bốt nữa ở thôn Tăng Bổng, Xã Bách Thuận bị kẹp giữa hai
gọng kìm của bốt giặc, vừa đặt chân lên xã này bọn giặc đã dùng lưỡi lê báng
súng bắt thanh niên địa phương đi lính cho chúng. Mặt khác, chúng tuyển chọn
một bọn chỉ điểm chó săn, giăng bẫy bắt các đảng viên và du kích. Mục tiêu số
một của chúng là tiêu diệt cơ sở đảng và lập tề.
Mặc dù quản lý gắt gao dưới mạng lưới
đồn bốt và bọn chỉ điểm dày đặc, nhưng suốt nửa năm bọn giặc vẫn không lập được
tề. Ban ngày làng xóm im ắng, chỉ có những người dân lặng lẽ làm ăn, nhưng ban
đêm du kích lại xuất hiện quấy rối bốt giặc và phá tề. Những tên bảo an không
dám ngủ đêm ở nhà với vợ con, chiều chiều phải ôm chăn gối vào bốt nhờ bọn lính
che chở. Để trấn áp những tên tay sai mẫn cán muốn theo giặc lập tề, một đêm du
kích đột nhập vào bốt Tân Đệ bắt sống năm tên bảo an khi chúng đang đánh tổ tôm
và dong đi trước mũi bọn lính gác. Đó là một đòn khủng khiếp đánh vào bọn chó
săn đang theo giặc dựng bốt, lập tề, khiến chúng không dám hoành hành ngang dọc
nữa. Cứ thế du kích Bách Thuận tồn tại và hoạt động trong sự che chở của nhân
dân. Đội tuyên truyền lưu động được thành lập cấp tốc đêm đêm tổ chức phát
thanh tin tức, kêu gọi binh lính địch trở về với nhân dân.
Bọn chỉ huy quân đội Pháp dùng mọi thủ
đoạn sa đoạ mua chuộc những tên tay sai đắc lực cho chúng. Những tên phản động
người trong làng, trong xã đi theo giặc, nhiều tên đã thành ác ôn khét tiếng.
Tiêu biểu của bọn ác ôn ấy là cai Việt, tên đồn trưởng nguỵ binh đồn Tân Đệ.
Hắn vốn là người làng Thuận Vy, quen sống lầm lỳ, cô độc, không thân mật với
bất cứ ai. Hắn có vợ nhưng không con. Từ khi được làm đồn trưởng hắn ở lỳ trên
bốt. Vì quá tàn ác nên hắn sợ và nghi ngờ tất cả mọi người. Hắn không dùng lính
bảo vệ mà luôn giữ hai thằng cháu tin cẩn bên mình, khi càn quét cũng như khi
ăn, khi ngủ. Việc giết người, tra tấn người của hắn thành thói quen. Một lần
cai Việt dẫn một tốp lính vào làng, đang đi hắn xuỵt bọn lính đứng lại và giương súng lên ngắm. Bon lính
chưa hiểu ra sao thì súng đã nổ. Một người con gái đang hái ngâu lặng lẽ rơi từ
trên cây xuống như một con chim bị đạn. Đó là chi Tình đảng viên, cán bộ địch
vận của đảng uỷ bí mật Bách Thuận. Cai Việt không biết chị Tình làm cán bộ, hắn
giết chị vì muốn giết người, thế thôi. Vì là người làng, hắn biết rõ mọi đường
ngang lối tắt, nên hắn càng nguy hiểm. Hắn thường cho lính phục kích bí mật
đánh úp các chiến sỹ du kích. Một lần do sơ hở, anh Gia thôn đội trưởng du kích
và hai chiến sỹ nữa sa vào ổ phục kích của cai Việt. Bắt được ba người, cai
Việt bắn chết tại chỗ và cắt đầu anh Gia xách về bốt. Hắn đã cắt đầu hơn hai
mươi người.
Trước sự tàn ác của bọn ác ôn, nhân
dân trong xã và đội du kích căm thù sôi sục. Một số người trước đây hoang mang
lo sợ, giờ đây vì căm thù mà mạnh dạn lên, ngấm ngầm ủng hộ lực lượng du kích
bí mật. Đội du kích tổ chức thành từng nhóm hoạt động ở các khu vực khác nhau,
quấy rối các bốt giặc, trấn áp bọn ác ôn. Nhiều tên tề gian và chỉ điểm đã bị
anh em du kích bắt và trừng trị. Cai Việt biết rằng hắn luôn bị theo dõi từng
bước nên ít khi ra khỏi bốt. Các cán bộ địch vận của đảng uỷ đã gây được một số
nhân mối trong hàng ngũ địch. Đó là những người thuộc thành phần cơ bản bị bọn
giặc bắt vào lính. Qua các nhân mối, đội du kích đã mấy lần đột nhập vào bốt
ban đêm cướp súng giặc, bắn bọn tề gian. Riêng cai Việt, mặc dù anh em du kích
được sự giúp đỡ của nhân dân, đã đêm ngày cải trang theo dõi nhưng chưa diệt
được. Một lần cai Việt về làng ăn giỗ, vì hắn đinh ninh rằng du kích không dám
hoạt động ban ngày. Được tin ấy, anh em du kích đội hầm bí mật lên, cải trang
làm khách trong họ đến ăn giỗ để bắt hắn. Khi thấy mấy người lạ vào sân, cai
Việt theo thói quen của một con cáo gian ngoan liền đổi chỗ ngồi. Mấy du kích
vào trong nhà, rút súng lục ra hô: “tất cả ngồi im”. Ba gian nhà chật người
nhốn nháo hỗn loạn. Cai Việt lợi dụng lúc hỗn loạn ấy, đạp cửa sau chạy ra vườn
um tùm cây cối, lau sậy. Anh em du kích đuổi theo, bắn xối xả, nhưng hắn đã
trốn thoát. Nhiều người tức phát khóc vì không tiêu diệt được tên phản bội nợ
máu chồng chất với nhân dân. Từ sau lần ấy, tiếng tăm du kích làm cho bọn giặc
trong các bốt khiếp sợ, nhưng nhân dân lại rất tự hào. Tuy nhiên sau hơn một
năm bọn giặc chà xát, đội du kích hơn một trăm người đã tổn thất còn lại chưa được
năm chục người.. Có người đã hy sinh , một số dao động mà bỏ hoạt động, hay ra
đầu thú, có người trốn ra vùng tự do. Các chiến sỹ còn trụ lại đều là những
đảng viên trung kiên, quyết sống chết với quân giặc, giữ vững lòng tin cho nhân
dân.
Từ giữa năm 1951, bọn giặc khủng bố
hết sức khốc liệt. Đêm đêm lính gác bí
mật vây kín nhà các đội viên du kích. Chúng bắt vợ và bố mẹ đảng viên du
kích lên bốt tra khảo dã man, bắt khai nơi trú ẩn của họ. Một số người không
chịu được sự khủng bố đó đã lên bốt đầu thú, ngày ngày đi trình diện, tối tối
vào bốt ngủ tập trung. Tổ chức Đảng và đội du kích lại mất thêm người. Bọn giặc
tổ chức càn quét, chà xát từng góc sân, mảnh vườn để tìm hầm bí mật của tổ chức
kháng chiến. Trước tình căng thẳng có nguy cơ vỡ cơ sở, các đồng chí lãnh đạo
bí mật lên xin chỉ thị của huyện uỷ kháng chiến. Được huyện chấp nhận, đội du
kích tổ chức rút ra ngoài để củng cố lực lượng. Một đêm cuối năm rét như cắt,
ba mươi sáu đội viên còn lại của Bách Thuận luồn qua các ngõ xóm ra bờ sông
Hồng. Lợi dụng trời tối, từng đội du kích bơi qua sông sang phía Nam Định. Họ
từ đó men theo bờ nước đi xuống hạ lưu, rồi lại bơi sang sông trú nhờ ở trại
Lựa. Thế là đường dây liên lạc với dân bị cắt đứt, không có tiếp tế nữa. Hàng
ngày anh em du kích đi làm thuê cho nhân dân địa phương để lấy cơm ăn. Đêm đêm
lại kéo nhau ra cái gò giữa dòng bàn bạc. Không thể ngồi yên ở cái nơi an toàn
mà nhìn vợ con, nhân dân xã mình ngày đêm bị giày xéo mà bọn phản động theo
giặc thì nhởn nhơ, tự do hoành hành. Mọi người đều thấy phải đánh giặc theo
chiến thuật mới. Ban ngày đi làm thuê lấy cơm ăn, ban đêm anh em du kích vượt
sông sang phía Nam Định, men theo bờ sông đến bến đò Thuận Vy, lại vượt sông
Hồng về xã. Nhân dân đang ngủ nghe thấy tiếng súng quây bốt của du kích, giật
mình tỉnh giấc. Bà con tụ tập vài ba người trong những ngôi nhà không đèn để
chờ đợi...Du kích về hoạt động gần sáng lại bơi sông đi. Vợ con các đảng viên
và đội viên du kích trở thành liên lạc. Đêm đêm họ đợi du kích về, trong bóng
tối, vài phút ngắn ngủi gặp nhau họ cung cấp cho đội du kích tin tức về các bốt
giặc, về bọn bảo an và bọn phản động. Do đó, đội du kích vẫn nắm vững hoạt động
của bọn giặc và chủ động quấy rối chúng. Đến gần sáng, du kích lại vượt sông,
đi bộ hơn chục cây số về trại Lựu. Thời kỳ này, những cán bộ và du kích luôn
luôn bị đói. Những ngày mưa rét không đi làm thuê được thì không có cơm ăn.
Nhân dân địa phương cũng nghèo, quyên góp cho đội du kích từng củ khoai, hạt
gạo. Nhiều ngày chỉ ăn khoai luộc, nhưng đêm đêm tất cả những người còn lại của
đội du kích vẫn vượt sông đi về quấy rối bốt giặc, không để cho chúng yên và không
lập được tề.
Trước sự hoạt động dai dẳng của đội du
kích, cai Việt cho bắt tất cả những người có chồng đi hoạt động hoặc đi vắng
nhà. Hơn tám mươi gia đình có người bị bắt. Bọn giặc yết bảng ở chợ và đầu làng
báo rằng ai nộp được một đầu du kích được thưởng một món tiền lớn. Ban chỉ huy
du kích liền tổ chức một cuộc phản công. Một đêm du kích đột nhập về làng, vũ
trang bằng súng giả và súng thật, ập vào nhà những tên kỳ hào và ác ôn, gọi
người nhà chúng dậy và báo rằng nếu bọn giặc không thả những người bị bắt thì
gia đình chúng sẽ không được yên. Thế là hôm sau vợ con bọn lính kéo nhau lên
bốt đấu tranh với cai Việt và bọn chỉ huy. Trong thâm tâm, bọn ác ôn và bọn kỳ
hào cũng sợ du kích nên chúng đành thả những người bị bắt về làng.
Đội du kích phải bật đất đến năm 1952.
Khi quân ta thắng lớn trên các chiến trường, thực dân Pháp không còn đủ lực
lượng viễn chinh để kiểm soát vùng đồng bằng nữa. Bọn nguỵ quân và bọn ác ôn lo
sợ co cụm lại trong bốt. Du kích kết hợp với bộ đội huyện tiêu diệt bốt Tăng Bồng.
Sau đó đội du kích lại trở về làng. Tân Đệ là đầu mối giao thông quan trọng,
nên giặc đổ quân về chốt giữ đến cùng. Nhưng thế giặc đã yếu nên tinh thần
chiến đấu của du kích và nhân dân càng trở lên mạnh mẽ và quyết liệt. Một hôm
anh em du kích bắt được một tên chỉ điểm trá hình làm nghề cắt tóc. Hắn buộc
phải khai rằng bọn giặc sắp mở một trận càn để trấn an tinh thần binh lính. Quả
nhiên buổi chiều hôm ấy một trung đội địch kéo vào làng. Đội du kích lúc đó chỉ
có bảy người ở nhà với một khẩu súng trường, một khẩu súng ngắn. Anh em du kích
bố trí đánh giặc bằng nghi binh và tấn công bất ngờ. Vừa nghe súng nổ và tiếng
hô xung phong bọn giặc đã tháo chạy toán loạn. Du kích bắt sống được một tên
đội và thu một súng. Từ hôm đó, chúng không dám ra khỏi bốt nữa và nhân dân làm
chủ xóm làng.
Từ cuối năm 1953, bốt Tân Đệ bị du
kích bao vây đêm ngày. Tình hình chiến sự đã thay đổi, ngày chiến thắng đã đến
gần. Khi sắp có lệnh đình chiến, ban xã đội viết một bức thư cho cai Việt, nhờ
vợ hắn chuyển vào bốt cho hắn. Bức thư đó viết: “Anh Việt, hãy buông súng đầu
hàng, trở về với gia đình. Cách mạng sẽ khoan hồng cho anh...” cai Việt viết
bức thư trả lời bảo vợ đưa cho du kích: “Các ông và cách mạng khoan hồng, nhưng
sợ dân làng không khoan hồng cho tôi. Xin chào các ông...”. Hắn đã hiểu mức độ
tội ác của hắn.
Một đêm trước ngày đình chiến, cai
Việt cải trang bỏ trốn khỏi bốt, sau đó theo bọn giặc di cư vào Nam. Hắn không
biết được rằng, một ngày kia miền Nam sẽ giải phóng, sẽ thuộc về cách mang. Hắn
đã mai danh ẩn tích để trốn khỏi quá khứ đẫm máu, ngờ đâu đến cuối đời, hắn còn
gặp người làng biết hết những tội ác của hắn. Nếu hắn biết được quê hắn giờ đây
đã tươi vui, đầm ấm, con người sống giữa yêu thương, hắn sẽ cảm thấy hết sự bất
hạnh của một kẻ phản trắc bị nhân dân ruồng bỏ, một con quái vật, lương tâm
luôn luôn bị dằn vặt vĩnh viễn phải lẩn trốn quê hương, một quê hương mà bao
người từ phương xa thường mong ước được đến thăm.
Sẩm tối một ngày tháng giêng năm 1975,
một anh bộ đội đeo ba lô đứng hồi lâu bên dốc đê lối rẽ vào làng Thuận Vy. Anh
dò dẫm xuống khu ruộng chân đê, đưa tay lật từng nếp lá, và trong đêm tối anh
nhận ra đó là cây dâu. Mười năm trước, khi anh lên đường nhập ngũ, khu đất này
còn cái bối vỡ đê, xung quanh là cánh bãi lầy thụt. Vậy mà trong thời gian anh
đi đánh giặc, phù sa sông Hồng và bàn tay con người quê anh đã biến vùng đất
sâu quanh năm ngập nước này thành nương dâu. Anh không nhận ra lối về, đành vào
một nhà sáng đèn hỏi thăm. Một người làng xách đèn dẫn anh đi qua những bờ vùng
giữa các ruộng dâu, khi đứng giữa sân nhà mình, anh mới nhận ra phương hướng.
Người thanh niên đó sinh ra một năm
sau cách mạng tháng Tám. Những năm kháng chiến chống Pháp gian khổ anh còn là
một đứa trẻ, con một du kích Bách Thuận. Anh trưởng thành cùng với sự trù phú
dần lên của làng xóm. Sau cuộc kháng chiến chống Mỹ, anh được cấp trên cho nghỉ
mất sức. Hai năm sau trở về anh thiếu uý đặc công ấy được đảng bộ và nhân dân
Bách Thuận tín nhiệm giao cho làm chủ tịch xã. Đó là đồng chí Phạm Văn Thưởng
chủ tịch trẻ tuổi của xã Bách Thuận hiện nay. Bách Thuận có một đội ngũ cán bộ
vững mạnh. Hầu hết cán bộ chủ chốt của xã trưởng thành từ sau cuộc kháng chiến
chống Pháp. Đó là lớp người kế cận sau những cán bộ kháng chiến. Bách Thuận là
một trong những xã được tỉnh công nhận là nơi có chính quyền mạnh, và có lẽ
cũng là một trong những xã được nhiều Huân chương nhất so với các địa phương
trong tỉnh Thái Bình. Riêng thành tích của hai cuộc kháng chiến, xã đã được bốn
huân chương, hai huân chương hạng hai và hạng ba. Từ khi xây dựng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc, xã lại được hai huân chương Lao động hạng ba và một huân
chương về tín dụng. Huân chương về tín dụng là một thành tích độc đáo của vùng
quê giầu đẹp này, mỗi năm dân ở đây gửi vào tiết kiệm tám trăm hai mươi ngàn
đồng. Năm 1962, Bách Thuận lại được huân chương lao động hạng hai về thành tích
dâu tằm. Sản lượng kén của Bách Thuận cao nhất miền Bắc, 105 tấn.
Các cán bộ của Bách Thuận dành một
buổi chiều dẫn chúng tôi đi xem làng xóm của xã. Chúng tôi vào nhiều gia đình
có hoàn cảnh, lai lịch khác nhau, nhưng hầu hết đời sống đều ổn định. Những gia
đình đó trước kia rất nghèo khổ, nhiều nhà có người chết đói ở chợ Thuận Vy hồi
năm 1945. Bây giờ trong nhà họ có sập gụ, tủ chè, tràng kỷ gỗ gụ, những đồ cổ
mua từ Nam Định, Ninh Bình chở về. Dân Thuận Vy thích chơi cây cảnh, đồ cổ,
trồng hoa trước nhà. Kinh tế của tập thể và gia đình ở đây đều dồi dào. Thu
nhập của Hợp tác xã vừa qua tính ra giá trị là 12 triệu đồng. Sản lượng kén
trung bình hàng năm của Bách Thuận là 105 tấn, nhiều gấp hai cả huyện Thái Thuỵ
và là xã có sản lượng kén cao nhất tỉnh. Sang năm 1983 này, kế hoạch sản xuất
có mở rộng một số ngành nghề, dự tính giá trị sẽ tăng lên 15 triệu đồng. Vì thu
nhập như vậy, hợp tác xã đã xây được bể bơi hiện đại, trường học hai tầng, nhà
trẻ, trạm y tế rất khang trang. Khu trung tâm xã đã mang dáng dấp một khu thị
trấn nhỏ.
Cán bộ của Bách Thuận không chỉ quan
tâm đến việc phát triển kinh tế, mà còn quan tâm đến việc giữ gìn và củng cố vẻ
đẹp tự nhiên của làng xóm. Chúng tôi đi trong những ngõ xóm rợp bóng cây ngâu,
cây táo, vừa đi các anh vừa đọc bài thơ của nhà thơ Vũ Quần Phương: "Tôi lẫn vào cây, cây dẫn tôi/ vườn Thuận Vy
xanh khắp bãi bồi/ cây ngâu dẫn lối bằng hương dịu/ cây táo đưa đường, hoa táo
rơi...". Những câu thơ ấy, qua giọng đọc say mê của người cán bộ vốn
yêu văn học ở giữa chốn thiên nhiên của Bách Thuận này, nghe thật tha thiết và
cảm động. Anh Huấn là một cán bộ lâu năm của Bách Thuận, thuộc rất nhiều thơ,
đã sưu tầm các bài thơ viết về Thuận Vy in trên các báo và đóng lại thành một
tập. Công trình sưu tầm giầu tình yêu quê hương của anh đã trở thành tiền đề
cho việc xuất bản tập thơ về Bách Thuận. Tôi nghe đọc thơ, nhìn phong cảnh của
Thuận Vy, chợt nhận ra ở đây có rất nhiều loại chim đang hót. Khi tôi nói nhận
xét đó, các anh nói rằng:
- Ở đây chúng tôi cấm bắn chim đã lâu.
Bảo vệ chim để chúng bắt sâu một phần, nhưng chính là để cho cảnh thêm đẹp.
Nghề làm vườn mà nhiều chim cũng rất hại, nhất là chim gáy. Vãi đỗ rồi, không
coi được nó nhặt sạch. Nhưng chim gáy hót thật tuyệt vời.
Qủa thật, giống chim cu gáy lâu nay
ngày càng hiếm, vì sự xuất hiện ngày càng nhiều các loại súng bắn chim. Nhưng
về đây tôi lại được nghe tiếng gù say mê của chim gáy lúc gần lúc xa qua các
vòm lá. Các anh còn nói rằng ở mấy nhà ven sông Hồng đang hình thành trại cò.
Cò về làm tổ, đẻ con ngày thêm đông đúc và xã không cho ai bắt và bắn cò.
Bách
Thuận như một cô gái đẹp biết tôn trọng và giữ gìn nhan sắc của mình, vì thế mà
càng thêm đẹp, thêm duyên. Đêm mùa xuân nằm dưới một mái nhà Thuận Vy nghe mưa
rơi mơ hồ tôi đã nghĩ như vậy. Căn nhà rộng có tủ chè, sập gụ, đồng hồ Ôđô và
nhiều của cải. Ban đêm vẫn mở rộng cửa bức bàn, bông mành. Hôm đầu ngủ ở đây,
tôi định đóng cửa nhưng anh chị chủ nhà nói là không cần đóng, vì không có trộm
cắp. Tổ chức an ninh ở đây rất chặt chẽ. Một đơn vị gồm các đồng chí bộ đội
phục viên luôn luôn tuần tra bảo vệ tài sản của tập thể và của nhân dân. Một số
tên lưu manh có tiếng của Hải Phòng và Nam Định đã từng tung hoành ở nhiều nơi,
nhưng về đến đây là bị bắt. Nơi đây thật là đất lành, quả ngọt và bình yên.
Nhưng để có được điều đó, đã phải qua bao gian khổ hy sinh của nhiều thế hệ
dựng xây và bảo vệ
Tháng 3/1983
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét